Trở lại Am Tiên - Ngàn Nưa


Na Sơn – Núi Nưa – Ngàn Nưa, một nguồn đề tài hầu như vô tận. 
Chúng ta đã ngược dòng thờigian tìm hiểu Am Tiên núi Nưa (*), 
nhưng chưa đủ, cũng nên “Trở lại An Tiên núi Nưa” để biết 
thêm chuyện xưa, chuyện nay, chuyện xưa cảnh tiên chuyện nay đền Mẫu.

Các sử sách cổ như Dư địa chí của Phan Huy Chú, Đại Nam nhất thống
chí của Quốc sử quán triều Nguyễn,...  đều chép thống nhất sự tích người
Tiều phu núi Nưa, cũng như trước đó, Nguyễn Dữ đã kể trong sách Truyền
 kỳ mạn lục:


"Đất Thanh Hoa phần nhiều là núi, bát ngát bao la đến mấy nghìn dặm. 
Trong đó có một ngọn núi cao chót vót tên gọi là núi Nưa. Núi có động
dài mà hẹp, hiểm trở mà quạnh hiu, bụi trần không bén tới, chân người 
không bước tới. Hằng ngày trong động có người tiều phu gánh củi đi ra,
 đem đánh đổi lấy cá và rượu cốt được no say chứ không lấy một đồng
 tiền nào. Hễ gặp ông già, trẻ em dưới đồng bằng lại nói chuyện những 
việc trồng dâu, trồng gai một cách vui vẻ. Ai hỏi họ tên, nhà cửa, người
 tiều phu chỉ cười, không trả lời. Mặt trời ngậm núi, người tiều phu lại 
thủng thỉnh về động, vừa đi vừa gõ đòn gánh mà hát:

Núi Na đá mọc chênh vênh,
Cây tùm um, nước long lanh khói mờ.
Đi về hôm sớm thẩn thơ,
Mình dư áo lá, cổ thừa chuỗi hoa.
Non xanh bao bọc quanh nhà,
Ruộng đem sắc biếc xa xa diễu ngoài.

                             (Trúc Khê dịch)

Đời Hồ Hán Thương (1400 - 1407) nghe tiếng người tiều phu, sai sứ 
giả mời ra giúp việc. Ông lão mời sứ vào động núi, nhưng chỉ toàn nói 
chuyện chê trách việc làm của thời bấy giờ chứ không chịu ra làm 
quan cho tân triều. Sứ giả về tâu với Hán Thương. Hán Thương lại 
sai sứ đi mời lần nữa. Người tiều phu muốn lánh mặt. Sứ giả chỉ thấy 
rêu mọc lan khắp cửa động, đường vào khi trước đã bị che lấp mất
rồi. Hán Thương cả giận, sai đốt cháy núi Nưa thì thấy một con hạc
đen vút lên trên không bay đi...

Tiến sĩ Hán học Phan Huy Ôn quê Hà Tĩnh (thế lỷ XVIII) có lần du 
ngoạn danh sơn thắng tích núi Nưa, hứng bút đề thơ:

Phiên âm:

Nông Cống chi tây vạn lĩnh hoàn,
Sa nga Na lĩnh bức vân gian.
Thiên lưu dật thú nham khê cổ,
Đạo quýnh tri thần thảo thụ nhân.
Động kính dĩ tùy Tiều ẩn diểu,
Sơn dung bất vị Hán Thương hàn.

                 (Tài liệu thiếu 2 câu)

Dịch thơ:

Trập trùng núi dựng trời tây,
Na Sơn một dải xuyên mây chín tầng.
Thú riêng ai lánh bụi trần,
Đồi cây, khe đá dành phần riêng ai.
Lối Tiều cỏ lấp rêu phai,
Vẫn nguyên dáng núi cợt ngài Hán Thương.

                         (Hoàng Tuấn Phổ)

Người Tiều phu ấy vốn làm quan nhà Trần, khi họ Hồ cướp ngôi, 
không chịu phò tá tân triều, bỏ vào núi Nưa ở ẩn. Ông lánh đời nhưng
 vẫn yêu đời, tự kiếm sống bằng việc hái củi đem xuống chợ đổi 
lấy cá, rượu, không lấy tiền bạc, không tích lũy của cải để dành. Khi 
gặp nông dân, ông hay nói những chuyện trồng dâu, trồng gai, và 
chính ông cũng trồng một vườn cây thuốc để chữa bệnh cứu đời. 
Đến năm 1950, sau gần 600 tuổi, vườn cây thuốc này vẫn xanh tốt, 
dân chúng thường mách bảo nhau lên Am Tiên núi Nưa xin thuốc tiên
 những khi mắc phải chứng bệnh đau ốm không rõ nguyên nhân, thầy
 lang bó tay lắc đầu.

Theo Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam của Nhóm nghiên cứu
Lê Quý Đôn, Nguyễn Dữ vì nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, không làm
 quan, ở nhà trồng vườn, chép sách, từng vào Thanh Hóa một thời gian
 thu thập tài liệu, viết những truyện: Người Tiều phu núi Nưa, Từ Thức
 lấy vợ tiên, Chuyện Lệ nương... Nguyễn Dữ và Trần Na chung bầu 
tâm sự, hình ảnh Người Tiều phu núi Nưa là giấc mơ lý tưởng của họ
 Nguyễn, cốt lõi sự thật lịch sử được di tích Am Tiên chứng minh khá rõ.

Nước ta có nền y học dân gian lâu đời, nhân dân ta dù tiếp thụ Bắc dược 
– thuốc Bắc, vẫn chủ trương “Nam dược trị Nam nhân”, góp phần tích
 cực xây dựng nền Đông y cổ truyền. Hai ông tổ trồng cây thuốc Nam, 
Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn với núi Dược Sơn (Kiếp Bạc, Hải
 Dương), người Tiều phu ẩn sĩ Trần Na ở núi Nưa, Thanh Hóa. Chỗ
 khác nhau giữa hai ông, Hưng Đạo là thân vương đại quí tộc, trong nhà
 hàng trăm gia nhân, ngoài cửa hàng nghìn nô tỳ, tùy ý sai khiến, còn 
Trần ẩn sĩ Tiều phu chỉ có hai bàn tay chai sạn, mọi việc đều tự lo liệu.
 Cho nên, Tiều phu được nhân dân suy tôn “Ông Tiên núi Nưa”, nơi 
ông ở, ngôi nhà tranh, cái am cỏ thành Am Tiên, cái giếng ông đào là
 giếng tiên, phiến đá cuộc cờ được gọi bàn cờ tiên, và vườn cây thuốc
 ông trồng, từng cái lá cũng hóa phép tiên... Tất cả di vật ấy đều là di 
tích lịch sử-văn hóa, được sử sách ghi chép, nhân dân bảo tồn, ngành
 văn hóa cấp bằng chứng nhận.

Rất tiếc, Am Tiên núi Nưa-bức danh họa thiên nhiên tuyệt tác ấy,
 nay đã bị lu mờ.Chốn thần tiên thanh tĩnh, ngát thơm bích đào, hồng 
hạnh hóa sắc màu lòe loẹt ngu tối, sặc mùi tiền bạc, đâu còn cây kim 
tiền xưa trồng hai bên tả hữu giường mây trong nhà tranh, am cỏ... Một 
ngôi đền “hoành tráng”, sừng sững, kiêu hãnh hiện lên trước sự ngạc nhiên
 của trời mây, cây cỏ, núi khe! Đền ba gian hai chái, cũng có hai mái, 
thực chất mái trên chẳng khác cái mũ con chim chào mào! Không còn lối 
kiến trúc nào “tân kỳ”  hơn, các chi tiết đều đấm đá lẫn nhau đôm đốp, 
khỏi bàn, tốn giấy mực, chỉ cần tóm gọn một câu: “Phi cổ, phi kim, 
phi truyền thống” !. Ngôi đền không phải tôn tạo mà tôn tạo này thờ ai?
 Hay để kỷ niệm vị nào? Nó không thờ tiên, phật, thánh, thần gì, cũng 
chẳng kỷ niệm nữ anh hùng núi Nưa: “Cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng
 sóng dữ, chém cá Tràng kình biển Đông” ... mà thờ Mẫu! Lại thờ Mẫu!
 Tại sao đâu đâu người ta cũng dùng chiêu bài thờ Mẫu ? Nhưng cụ thể 
Mẫu nào? Thần linh được thờ phải có tính danh, lai lịch, không thể
 “hòn đất cất lên ông bụt”. Thấy người vái, mình cũng ly!

Tục thờ Mẫu là tín ngưỡng dân gian nước ta, thuộc thế giới thần linh vô 
cùng phức tạp, một công trình thần học lớn, đầy khó khăn, không dễ thực
 hiện. Ở đây, chúng ta khoanh vấn đề trong phạm vi một loại hình tín 
ngưỡng thời phong kiến độc lập tự chủ, bắt đầu từ lịch sử Trung đại...

Tín ngưỡng thờ Mẫu nước ta ra đời khoảng giữa thế kỷ XVI. Mẫu vốn
 là Quỳnh Hoa công chúa, con gái Ngọc Hoàng, có lỗi bị vua cha đầy
 xuống hạ giới, thác sinh vào nhà họ Lê, dòng dõi Lê Thái Tổ. Hết
 hạn lưu đầy, chúa tiên lưu luyến trần gian, tha thiết xin Ngọc Hoàng cho
 ở lại giúp đời, cứu người. Lần giáng trần thứ ba, chúa tiên Quỳnh Hoa
 tức Liễu Hạnh đóng đô phủ tại Phố Cát, Thanh Hóa quê hương. Bấy giờ
 nhà Mạc lên ngôi vua ở Thăng Long, con cháu họ Lê thất thế chạy vào 
Thanh Hoa dấy nghiệp Trung hưng, khôi phục đế nghiệp. Hai bên chiến
 tranh, đất nước điêu linh, xã hội điêu tàn, nhân dân điêu đứng, tạo nên
 mảnh đất mê tín dị đoan nảy nở. Liễu Hạnh được vua Lê Trung tông 
phong là Thế Thắng Hòa Diệu đại vương. Đời Nguyễn, vua Gia Long
 sắc phong bà làm “Mẫu nghi thiên hạ”. Tín ngưỡng thờ Mẫu bắt đầu 
từ đây. Sau dân gian sáng tạo thêm Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thủy 
Cung để cai quản cả 3 thế giới: Trời, Đất, Nước, gọi là tam phủ, họp
 làm bộ ba tam tòa Thánh Mẫu, hình thành Đạo Mẫu, đối lập với Đạo 
Đông xuất hiện ở vùng quê nghèo đất biển Quảng Xương. Theo cách dân
 gian gọi: Liễu Hạnh tức Mẫu Thiên. Thượng Ngàn là Mẫu Địa cai quản
 rừng núi, Mẫu Thủy Cung là Mẫu Thoải (Nước) trông coi các miền 
sông nước.(**)

Đền Mẫu trên ngọn Am Tiên núi Nưa chắc thờ Mẫu Thượng Ngàn, có
 thể thờ cả Mẫu Liễu Hạnh, vì là chúa tể đạo Mẫu hay tam phủ (rồi tứ
 phủ công đồng), gồm Trời, Đất, Nước (vũ trụ) (***)

Tuy nhiên dưới chế độ phong kiến cũng như ở thời đại cách mạng, 
dù tự do tín ngưỡng, đều phải tuân thủ luật lệ (triều đình hay chính phủ), 
thần nào được thờ, địa điểm ở đâu, thờ tự thế nào, quy định rõ trong
 sắc phong, ngọc phả (xưa), quyết định công nhận, bằng chứng nhận d
tích (nay). Am Tiên núi Nưa đã được cấp Bằng chứng nhận một di tích 
lịch sử văn hóa, không thể “sang tên”, “chuyển nhượng” cho bất cứ
Mẫu nào hay thần thánh khác, lẽ đơn giản, họ không có di tích, dấu 
tích gì ở đây. Vậy tại sao Mẫu dám tranh chấp Am Tiên, mưu toan độc
 chiếm núi Nưa, ngang nhiên xây dựng đền đài trên đất Tiên Ông đã 
được cấp “Sổ đỏ”! Mẫu coi thường dư luận, bất chấp luật pháp đến thế ư?.


Hoàn toàn không phải! Mẫu đi mây về gió, ngao du cả “thế giới ba 
nghìn” (Tam đại tam thiên thế giới) đã có hàng trăm đền phủ trong 
nước được quy định từ thời phong kiến, thiếu gì chốn đô hội 
mà phải “bành trướng” hết dãy núi Nưa? Chẳng qua bởi trò đời 
phú quý sinh lễ nghĩa, bị những kẻ nhiễu sự bày đặt ra cả.



Người ta đâu phải xuất phát từ tấm lòng thành kính Mẫu, lạm dụng 
quyền lực tự do tín ngưỡng, lợi dụng danh nghĩa Mẫu, nếu không 
vì lợi ích cá nhân thì vì Mẫu chăng? Vô tình hay cố ý, họ đã xúc phạm
 Mẫu, làm tổn hại danh dự, danh thơm vị tiên chúa “Mẫu nghi thiên hạ”!

Công việc xây dựng đã bất chính lại phi kiến trúc, liệu mục đích sử
 dụng có hành vi bất minh?

Dư luận du khách gần xa, ngày càng thêm nhiều phản ứng. Đền Mẫu ở 
đâu sao mà cũng giống ở đâu cả! Thì cũng thầy tướng nói thánh nói 
tướng, thầy bói, bói ra ma, thầy cúng ê a sớ tấu phô-tô in sẵn, thầy
 đoán thẻ tán nhăng tán cuội. Lầm tưởng đốt cả nắm hương sẽ được
 Mẫu thương tình chứng giám, trong đền mù mịt khói tuôn nghẹt 
thở như đang ở bầu trời Bắc Kinh ô nhiễm. Đồ hàng mã thi nhau dâng
 cúng nhiều xếp núi, lửa thiêu bốc cháy bùng bùng, chợt nhớ chuyện
 vua Hồ Hán Thương phóng tay đốt núi!

Giá chầu hầu bóng đúng bài bản truyền thống xưa, điệu múa đẹp,
 phong phú (****) đã bị Âu hóa thành khoe mông, phô ngực, ưỡn ẹo
 phong tình. Hát Văn vốn đậm đà sắc thái dân tộc, không khỏi thương 
mại hóa, bắt chước diễn viên hài, tiếng đàn nguyệt trêu hoa ghẹo 
nguyệt, giọng chầu thánh sống sượng lẳng lơ...! Luồng gió tiêu cực
 đã cuốn bay cát bụi mê tín dị đoan lên tận đỉnh Am Tiên thắng tích
Tiếc thay danh tiếng Mẫu Nghi, danh thơm Tiên Chúa bị kẻ phàm tục
 kinh doanh lợi dụng! Họ nghĩ rằng vô sư vô sách quỷ thần bất trách, 
nhưng Luật di sản lẽ nào chớp mắt bỏ qua?

Có ý kiến đề nghị Đền Mẫu Am Tiên nên thờ cả Tiên Ông Tiều phu,
 hai vị đoàn kết một nhà là vui vẻ cả! Không được! Tiên có nhiều loại: 
Thiên tiên, Địa tiên, Thủy tiên, Hải tiên, Sơn tiên,... và các tông phái:
 Tịch cốc, Đan đỉnh, Dược sư, Pháp lục... Hai vị ấy đối lập nhau, không
 thể xe kết một nhà, ngồi chung một chiếu!

 Ai đã dám bày ra tất dám cất đi, hãy trả lại tất cả di tích Am Tiên cho 
Am Tiên di tích! Cung kính rước Mẫu về Tử phủ Thanh đô, những Phố
 Cát, Hàn Sơn... Loan giá hồi cung, trong tiếng đàn, câu hát văn cổ
 truyền du dương, đằm thắm:

Trên đồi ngàn gió thổi rung cây
Dưới khe con cá lội, đàn chim bay về ngàn
Chim bay về đến đền Hàn
Thuyền xô sóng vỗ, hò khoan mái chèo
Hò khoan dô khoan ớ dô ô ô khoan oan...

                                                                            Theo HOÀNG TUẤN PHỔ
Liên hệ Mua mẫu






    Thông tin liên hệ

    QUẢNG CÁO TRỊNH GIA

    Skype: trinhthangtn

    Email: trinhthangtn@gmail.com

    Địa chỉ: 175 Long Vân - Xã Đồng Lợi - Huyện Triệu Sơn - Thanh Hóa

    Điện thoại:- 0912688861

    Thông tin chuyển khoản

    Ngân hàng Agribank CN Từ Sơn 2

    Chủ tài khoản: Trịnh Đình Thắng

    Số tài khoản: 2603205136357

    Nhận xét

    Bản đồ

    0912 6888 61
    0912 6888 61
    Chat Zalo
    Chat Zalo
    Liên hệ
    Liên hệ
    0912 6888 61